Thứ Hai, 15 tháng 4, 2013

SAO TỬ VI



Dưới đây là tính chất của các sao cùng các cung miếu hãm của mỗi sao ghi trong các chương “Chư tinh vấn đáp luận”.

Đá Thạch Anh

Hỏi: Sao Tử Vi tính chủ những điều gì? 

Đáp: Tử Vi thuộc hành thổ là vị sao ở ngôi tôn trong các vị sao. Mệnh con người ta trước phải căn cứ vào Tử Vi để từ đấy mà lập thành số.
Tử Vi ở nơi miếu vượng là cực tốt, rơi vào hãm địa là cực hung.
Tử Vi cần đi cặp với Phụ, Bật, Thiên Tướng, Xương Khúc, Khôi Việt, Nhật Nguyệt và Lộc Tồn.
Ở ngôi tôn đúng miếu địa Tử Vi có thể làm tiêu bách ác chế ngự các sao hung hãn như Thất Sát, Hỏa Tinh, Linh Tinh.
Tử Vi có Lộc Tồn lại thêm Nhật Nguyệt tam hợp chiếu thì quý bất khả ngôn.
Tử Vi thiếu Phụ, Bật đồng hành ví như ông vua mất triều thần gọi bằng cô quân, tốt đẹp giảm nhiều lắm.
Tử Vi gặp toàn sao hung ví như tiểu nhân lấn quyền đuổi quân tử ra đứng đường sẽ trở nên người gian trá bất thiện.
Tử Vi hội Liêm Trinh không thấy tả hữu tướng tá thường làm anh tiểu lại.
Tử Vi nên vào cung Mệnh Thân, cung Quan, cung Phúc Đức nếu gặp Tử Vi ngồi tại cung Tật ách, Nô Bộc là sái, giảm mất uy quyền dù có sự trợ giúp cũng không thành phúc lớn.
Tử Vi đóng vào các cung quan lộc, thân mệnh mà được tam hợp, xung chiếu có Tả Hữu, Thiên Tướng hay Lộc Tồn ngộ Thiên Mã không bị không vong cản trở là quí.
Tử Vi mà khuất phục được Thất Sát để dùng Thất Sát làm quyền uy là cách về Võ.
Tử Vi nhờ lực Văn Khúc là cách về Văn.
Tử Vi ở cung Tài Bạch hay Điền trạch đồng cư cùng Thiên Tướng, Thiên Phủ lại thêm lộc cung và Tả hữu hộ vệ tất làm tài phú chi quan.
Ở cung Tử Tức có Tả Hữu thì sinh quí tử, đứng một mình thì cô độc.
Hi Di Trần Đoàn tiên sinh viết:
“Tử Vi là đế toà, có thể giáng phúc tiêu tai ở các cung, hoá giải tính ác hung của các sao hư, chế phục Hỏa Linh, trị sao Thất Sát, được sự trợ giúp của Tả Hữu, Phủ Tướng đều quyền quí, nếu không được quí thì cũng phú. Bị Tứ Sát xung phá, Tử Vi khả dĩ chống đối đỡ giảm tai hại. Tử Vi gặp Phá Quân tại các cung Thìn, Tuất, Sửu, Mùi thì làm tôi bất trung, làm con bất hiếu. Số đàn bà con gái có Tử Vi ở mệnh dù gặp Tứ Sát xung phá không đến nổi phải rơi vào cảnh hạ tiện”.
Câu trên đây của Trần Đoàn tiên sinh có đoạn: “Tử Vi nhược ngộ Phá Quân tại Thìn, Tuất, Sửu, Mùi chủ vi thần bất trung vi tử bất hiếu” hơi khác lý thuyết Tử Vi ở nước ta chỉ nói rằng: “Giai bất nhân Phá Quân Thìn Tuất” mà thôi không thấy nói đến Sửu, Mùi đồng thời cho rằng mỗi lần Phá Quân gặp Tử Vi ở Sửu, Mùi thì Phá Quân bị Tử Vi khuất phục. 


Đá Thạch Anh

Ngọc Thiềm tiên sinh có câu ca về Tử Vi như sau:
     Tử Vi nguyên thuộc thổ
     Quan lộc quan chủ tinh
     Hữu tướng vi hữu dụng
     Vô tướng vi cô quân
     Chư cung giai giáng phúc
     Phùng hung phúc tự thân
     Văn Xương phát khoa giáp
     Vũ Khúc thu hoàng ân
     Nữ nhân hội đế toà
     Ngô cát sự quý nhân
     Nhược dữ đào hoa hội
     Phiêu lãng lạc phong trần
     Kình Dương tỏa linh tu
     Thử thiết cẩu thâu quần     
     Tam phương hữu cát củng
     Phương tác quí nhân bình
     Nhược hoàn vô phụ bật
     Chư ác cộng ẩm lăng
     Đế vi vô đạo chủ.
Nghĩa là:
Tử Vi thuộc hành thổ, chủ tinh về quan tước, phải có tướng tá mới hữu dụng, không tướng tá là ông vua bị vậy. Nó khả dĩ giáng phúc cho các cung, gặp hung nó chống đỡ. Đi với Văn Xương thì thi đỗ, đi với Văn Khúc dễ có tước vua ban. Nữ mệnh gặp Tử Vi đi cùng nhiều sao tốt sẽ lấy chồng sang quí. Nếu Tử Vi gặp cùng Đào hoa, nữ mệnh phiêu lãng phong trần. Tử Vi tụ tập với Kình Dương, Hỏa Linh là chơi với phường ăn cắp chỉ đi du thủ du thực. Tam phương phải thấy sao tốt hội cùng Tử Vi mới có thể gọi là quí. Thiếu Tả Phụ, Hữu Bật để các ác tinh uống rượu lăng nhục chủ là loại vua vô đạo.
Tử Vi miếu ở cung Dần Ngọ, vượng địa ở cung Thân, Hợi, Thìn, Tị, Tý, Sửu, Mùi. Bình thường Mão, Dậu. Sao này không có hãm địa vì nó tự giải cứu được.
Những câu phú về Tử Vi ghi trong đẩu số toàn thư gồm có:
- Tử Vi cư Tý Ngọ, Khoa, Quyền, Lộc chiếu tối vi kỳ (Tử Vi ngồi ở cung Tý, cung Ngọ được Khoa Quyền Lộc tam phương chiếu tới gọi là cách ngưỡng điện triều đẩu, số rất kỳ lạ).
- Tử Vi nam Hợi nữ Dần cung, Nhâm Giáp sinh nhân phú quí đồng. (Sao Tử Vi số con trai đóng tại cung Hợi, số con gái đóng tại cung Dần, những người tuổi Giáp, tuổi Nhâm đều phú quý).
- Tử Vi Mão Dậu Kiếp Không, Tứ Sát đa vi thoát tục chi tăng. (Tử Vi ngồi ở cung Mão cung Dậu bị Tứ Sát là Kình, Đà, Hỏa, Linh vây hãm cùng với Kiếp Không chỉ nên đi tu cho thoát tục là tốt hơn cả).
- Tử Vi Thiên Phủ toàn y phụ bật chi công. (Tử Vi và Thiên Phủ cần dựa vào hai sao Tả Phụ, Hữu Bật mới dễ bề phú quý).
- Tử Phủ đồng cung vô sát tấu, Giáp nhân hưởng phúc chung thân. (Hai sao Tử Vi, Thiên Phủ đồng cung ở Dần và Thân thủ mệnh, những người tuổi Giáp hưởng phúc suốt đời nếu không gặp những sát tinh làm hỗn).
- Tử Phủ đồng cung lâm Tị Hợi nhất triều phú quí song toàn. (Tử Vi, Thiên Phủ ở cùng một cung Tị hoặc Hợi thì được cả giàu lẫn sang).
- Tử Phủ triều viên, lộc phùng chung thân phúc hậu chí tam công. (Tử Vi, Thiên Phủ cùng ở Thân hoặc Dần lập mệnh lại thêm các sao tốt khác nhất là sao Lộc Tồn suốt đời phúc hậu, chức đến tam công).
- Tử Vi, Phụ Bật đồng cung nhất hô bá nặc. (Tử Vi cùng ở một cung với hai sao Tả Phụ, Hữu Bật gọi một lời trăm người thưa. Nếu Phụ Bật ở tam hợp hay xung chiếu thì không tốt bằng).
- Tử Phủ hiệp mệnh vi quí cách. (Hai sao Tử Phủ giáp cung mệnh là quí cách).
- Tử Phủ Kình Dương tại cự thượng. (Tử Vi Thiên Phủ hội với Kình Dương nếu được Vũ Khúc ở cung Thiên Di chiếu sang càng hay, số doanh thương lớn).
- Tử Vi, Xương Khúc phú quý khả kỳ. (Tử Vi hội cùng hai sao Văn Xương, Văn Khúc có thể ngồi đợi giàu sang tới).
- Tử Lộc đồng cung Nhật Nguyệt chiếu, quí bất khả ngôn. (Tử Vi cùng một cung với Lộc, có Thái Âm, Thái Dương chiếu, đại quí tộc).
- Tử Vi, Thất Sát, Hoá Quyền phản tác trinh tường (Tử Vi chế phục Thất Sát lại có Hoá Quyền, công danh hiển đạt).
- Tử Vi, Phá Quân vô Tả Hữu cát diệu hung ác tế lại chi đồ (Sao Tử Vi đi với Phá Quân, không thấy có Tả Hữu hay sao tốt là lọai ác bá cường hào).
- Tử Vi, Vũ Khúc, Phá Quân hội Dương Đà khi công họa loạn (Các sao Tử Vi, Vũ Khúc, Phá Quân đi cặp hội với Kình Dương, Đà La người ưa gây rối, phản bội, chỉ nên buôn bán chớ ham chức vị).
- Tử Vi, Quyền Lộc ngộ Dương Đà, tuy họach cát nhi vô đạo. (Tử Vi mặc dù có Quyền Lộc chiếu mà gặp Dương Đà sang quí nhưng tâm bất chính).
- Tử Vi, Thất Sát gia không vong hư danh thụ ấm. (Đi với Thất Sát lại gặp sao Thiên Không, chỉ có hư danh, hưởng chút tiếng tăm của ông cha lưu cho con cháu).
- Tử Phá lâm mệnh ư Thìn, Tuất, Sửu, Mùi tái gia cát diệu phú quí kham kỳ. (Đi cặp cùng Phá Quân ở các cung Thìn, Tuất, Sửu, Mùi được nhiều cát tinh trợ giúp là số phú quí nhưng lòng gian tham, quỷ quyệt). 


Đá Thạch Anh

- Tử Phá Thìn, Tuất quân thần bất nghĩa. (Tử Vi, Phá Quân ở hai cung Thìn, Tuất vua tôi bất nhân, bất nghĩa).
- Tử, Phá, Tham Lang vi chí dâm, nam nữ tà dâm. (Các sao Tử Vi, Tham lang, Phá quân tụ lại với nhau là người đa dâm, trai hay gái tà dâm. Phú nôm của tiền nhân ta có câu: Tử, Tang Tả Hữu hội trung. Có người con gái lộn chồng tìm ra chẳng hiểu có phải căn cứ ở câu phú chữ ở trên không. Theo các cụ, số con gái Tử Vi thủ mệnh không cần hội ngộ Tả Phụ Hữu Bật. Chữ Tang đây là Tang Môn, hay là chữ Tham. Đó là điểm đáng thắc mắc. Có lẽ chữ Tham đúng hơn vì sao Tham lang trong Tử Vi đẩu số toàn thư là đào hoa tinh).
- Nữ mệnh Tử Vi, Thái dương tinh, tảo ngộ hiền phu tín khả bằng. (Số con gái, Tử Vi hay Thái Dương thủ mệnh sớm gặp chồng hiền).
- Nữ mệnh Tử Vi tại Dần, Ngọ, Thân cung cát quí mỹ vượng phu ích tử, hãm địa bình thường. (Số con gái Tử Vi thủ mệnh đóng cung Dần, Ngọ, Thân gặp các sao tốt trợ giúp thì vượng phu ích tử, nếu rơi vào hãm địa bình thường. Nếu Tử Vi đóng ở các cung Tý, Dậu, Tị, Hợi mà gặp Tứ sát thì không toàn vẹn phúc lộc cả đời).
- Tử vi cư Ngọ vô Hình kỵ, Giáp, Đinh, Kỷ mệnh chí công khanh. (Sao Tử Vi đóng tại cung Ngọ, không gặp sao Thiên Hình Hoá Kỵ người tuổi Giáp, tuổi Đinh, tuổi Kỷ làm tới công khanh).

Đá Thạch Anh

CHƯ TINH VẤN ĐÁP LUẬN

Đá Thạch Anh

Các sao trong Tử Vi đẩu số chia làm 3 loại: Thiện cát, hung ác, và hoà giải. Tuy nhiên, đừng quên rằng sự sắp xếp vị trí của sao trong lá số mới quan trọng về cát hung chứ không phải chỉ căn cứ vào bản chất cố hữu của từng sao vì như đã nói ở trên dịch lý là biến, biến cát thành hung, hung thành cát tùy theo mỗi sao ở miếu hay hãm địa.
Sách có câu: “Cát tinh nhập miếu tắc vi cát, hung tinh thất địa tắt vi hung” là nghĩa vậy. Tất sẽ có người thắc mắc hỏi: “Nếu phải chờ miếu hãm rồi mới định cát hung, rồi hung biến cát, cát biến hung thì còn phân định sao thiện cát, hung ác làm gì cho rắc rối?”.
Người xưa giảng rằng: “Bản chất cố hữu của sao rất cần, nếu ta luận nó qua quan niệm “tính mệnh” tính thế nào, mệnh sẽ do tính mà thành. Người có nhiều hung tinh mà vinh hiển thường vất vả, gian nan. Người có nhiều cát tinh thường đến với vinh hiển dễ dãi hơn, từ từ và chắc chắn, trong khi hung tinh đắc cách phát dã như lôi, lên như sấm sét thật đấy nhưng cũng phải vượt nhiều hiểm nguy.
Xét vị trí xong rồi, điểm quan trọng thứ hai là tìm hiểu những sao bạn đi cặp với sao chủ. Bạn hư chủ hỏng.
Về khả năng hoá giải cả sao hung lẫn sao cát đều có. Nhưng sao cát thường ở vai trò này nhiều hơn sao hung. Một khi sao hung đã được giao phó nhiệm vụ hoá giải, nó sẽ thi hành triệt để hơn sao cát.
Do những lẽ kể trên, khi luận về các sao phải lưu ý nhiều mặt chỉ sơ một ly sẽ sai đi một dặm.
Tử Vi khác với Tử Bình, ở chỗ cái lý nó tản mạn không có nguyên tắc nhất định, dĩ nhiên, nếu bây giờ được ông Hi Di Trần Đoàn mà nói chuyện trực tiếp thì nguyên tắc nhất định kia tất phải có. Chỉ vì nó tam sao thất bản mất mát hay bị bí truyền nên mất đi đó thôi. Bởi thế xem Tử Bình chỉ cần thuộc lý ngũ hành cho chắc rồi cứ thế luận ra.
Còn xem Tử Vi thì lý ngũ hành không tìm thấy mấu chốt vững chắc để làm cơ sở luận bàn cho nên phải thuộc từng sao, từng cung, sao nào ở chỗ nào, nếu hãm, đắc địa, bất đắc địa để hạ đoán. 


Đá Thạch Anh

Ví dụ: trong chương “Đẩu cốt số tủy phú” quyển I của Tử Vi đẩu số toàn thư có câu: “Tham Vũ mộ trung cư, tam thập tải phát phúc” nghĩa là: Sao Tham lang, Vũ khúc đóng tại mộ địa (Thìn Tuất Sửu Mùi) ở mệnh cung thì ngoài ba mươi tuổi mới phát.
Rồi ở dưới lại thấy có câu giảng rằng:
“Tham vũ bất phát thiếu niên nhân” (Sao Tham Vũ đi đôi, tuổi thiếu niên không phát được).
Câu phú trên đây dùng lý ngũ hành âm dương nào mà giảng nếu không nắm được cái nguyên lý ngũ hành đã mang ra áp dụng riêng cho khoa này. Mà cái nguyên lý ấy cho đến nay vẫn chưa thấy ai làm sách giảng ra, sở dĩ như vậy là vì nguồn gốc của nó bị thất lạc rồi. Rút cuộc đoán số trước sau Tử Vi chỉ có một chỗ bám vững chắc nhất là các câu phú và những định lý làm sẵn. Có thể ví như định lý tất cả mọi vật đều rơi xuống mà không có lời giảng nguyên nhân rơi xuống của mọi vật là sức hút của trái đất.

Đá Thạch Anh

TỨ YẾU - THẬP DỤ - BÁT PHÁP

Đá Thạch Anh

Các sao phân phối đóng tại 12 cung, biến hoá vô cùng. Có bốn điểm trọng yếu để phân biệt:
a). Cát hung – b). Hư thực – c). Chủ khách – d). Cường nhược.
Sao có sao thiện, sao ác, thiện là cát tinh, ác là hung tinh. Hung hay cát không phải chỉ căn cứ trên tính chất mỗi vị sao mà còn căn cứ trên chỗ đứng của nó đúng hay sai, miếu địa hay hãm địa.
Hư thực thế nào? Sao tốt làm miếu địa mới là thực cát, thực cát thì không hung dù gặp hung cũng chẳng sợ. Sao xấu rơi vào hãm địa mới là thực hung, thực hung thì không cát, dù gặp cát cũng khó lòng giải. Sao tốt ở hãm địa là hư cát, hư cát là không tốt, còn có thể biến cát thành hung. Sao xấu ở miếu địa là hư hung, hư hung là không hung, còn có thể biến hung thành cát.
- Chia chủ khách ra sao?
Lấy các sao ở bản phương làm chủ, các sao tại cung tam hợp hay xung chiếu là khách. Nếu như bản phương không có chính tinh tức không có chủ thì phải mượn sao ở cung xung chiếu làm chủ, các sao cung tam hợp làm khách. Trong trường hợp cả hai cung xung chiếu cung vô chính tinh thì chỉ lấy sao khách mà luận cát hung.
Cường nhược đây ý nói cường nhược trong tương quan chủ khách. Khách với chủ đều tốt là khách chủ tương đắc hay khách chủ đều xấu là một bầy bạo nguợc thì khỏi phải đặt vấn đề cường nhược. Chủ khách vừa hung vừa cát thì phải xét chủ mạnh hay khách mạnh. Nếu chủ mạnh thì khách theo chủ, nếu chủ yếu thì khách kéo chủ đi. Cát cường cát thắng, hung cường hung thắng.
Thập dụ là gì? Là mười điều căn bản cho việc xem số ở mỗi cung cùng với cát cung tam hợp và cung xung chiếu:
1). Bản phương tốt (cát) “do nội tự cường” mạnh từ bên trong mạnh ra.
2). Bản phương xấu (hung) là “tòng căn tự phát” hư từ gốc rễ.
3). Cung xung chiếu tốt là “nghênh xuân tiếp phúc” chờ xuân đón phúc.
4). Cung xung chiếu xấu là “đương đẩu ác bổng” giơ đầu chịu búa đập.
5). Cung tam hợp tốt là “tả hữu phùng nguyên”, lắm chân tay giúp đỡ.
6). Cung tam hợp xấu là “tả hữu thụ địch”, địch từ bên phải, bên trái đánh tới.
7). Lân phương (cung đằng trước đằng sau) tốt là “lưỡng lân tương phù” hai bên hàng xóm phù trợ.
8). Lân phương xấu là “lưỡng lân tương vũ, hai bên hàng xóm mưu hại.
9). Cả bốn cung cùng tốt là “ Thiên tường vân tập” mây ngũ sắc kéo về chầu.
10). Cả bốn cung cùng xấu là “tứ diện sở ca” bị vây tứ phía không lối thoát.
Bát pháp là tám lối định cách cục khi xem sổ. Mệnh ai cũng thế, đều có cách cục ví như hình vuông, hình tròn, to, nhỏ, đẹp, xấu, lành vỡ của đồ vật. Cách cục của mệnh nói cho hết thì nhiều vô cùng nhưng đây dùng lối quy nạp để đưa thành tám lối. Chia ra như sau:
A. Thành phá tứ pháp:
Phàm mệnh thân bản phương có sao tốt gặp các sao khác ở cung tam hợp và xung chiếu nếu gặp:
- Khoa Quyền Lộc Quí thì kể như cách cục thành, đáng phê mấy chữ “giao long đắc vận vũ” (con rồng gặp mây nước).
- Nếu gặp tứ hung Hỏa Linh, Dương Đà thì kể như phá cách loại “miêu nhi bất tú” (chỉ nẩy mầm mà mầm không xanh tốt).
- Nếu vừa gặp tứ hung lẫn tứ cát thì kể như trong thành có phá, chẳng khác chi “bạch khuê hữu điềm” (viên ngọc trắng bị vết nứt, vết mẻ).
Cả tứ hung lẫn tứ cát đều không thì kể là cách chưa thành nhưng không bị phá, chờ xem hạn ra sao giống như “hỗn kim phác ngọc” (vàng còn lẫn các khoáng chất tạp nhạp, ngọc chưa được lấy ra khỏi đá).
B. Cửu khí tứ pháp:
Phàm mệnh thân cung mà các cung xung chiếu tam hợp đều có hung nếu:
- Gặp Lộc Quí Quyền Khoa là cứu cách, hạn hán lâu ngày được cơn mưa “cửu hạn phùng cam vũ”.
- Gặp Hỏa Linh Dương Đà là khí cách (bỏ đi), cây gỗ mục không thể khắc đẽo làm gì được “hử mộc nan điêu”.
- Gặp vừa tứ cát vừa tứ hung là vừa cứu vừa khí cách, giống như ăn gân gà “thực kê lặc”.
- Không gặp cả tứ cát lẫn tứ hung là cách “thủ tàu bão khuyết” nấn ná đợi thời.

Đá Thạch Anh

NHỮNG THUẬT NGỮ CẦN BIẾT

Đá Thạch Anh

Bất cứ nghề gì cũng có thuật ngữ, người thợ sửa xe hơi có những tiếng như “pan nóng”, “pan nguội”, “súp bắp”, “đen cô”... Thuật ngữ để chỉ dụng cụ hay tình trạng.
Khoa Tử Vi đẩu số, chữ đẩu đây nghĩa là ngôi sao cho nên tên sao và tính chất sao cùng với sự kết hợp các sao lại thành từng chùm mang những thuật ngữ riêng biệt.
Tử Vi đẩu số có bao nhiêu sao tất cả?
Ghi trong Tử Vi đẩu số toàn thư chỉ thấy nhóm sao chính là 14 vị: Tử Vi – Thiên Cơ – Thái Dương – Vũ Khúc – Thiên Đồng – Liêm Trinh – Thiên Phủ - Thái Âm – Tham Lang – Cự Môn – Thiên Tướng – Thiên Lương - Thất Sát – Phá Quân
Sau đây là các phụ tinh như: Văn Xương – Văn Khúc - Tả Phụ - Hữu Bật – Thiên Khôi – Thiên Việt – Thiên Mã - Lộc Tồn – Kình Dương – Đà La - Hỏa Tinh – Linh Tinh – Hoá Quyền – Hoá Lộc – Hoá Khoa – Hoá Kỵ - Thiên Không - Địa Kiếp – Thiên Thương – Thiên Sứ - Thiên Đức – Nguyệt Đức – Long Trì - Phượng Các – Thai Phụ - Phong Các - Hồng Loan – Thiên Hỉ - Tam Thai – Bát Tọa – Thiên Hình – Thiên Diêu - Đẩu Quân.
Rồi đến chòm sao đi theo Thái Tuế, chòm sao đi theo Lộc Tồn, chòm sao Tràng Sinh. Mỗi chòm 12 vị:
Rồi đến Triệt lộ không vong và Tuần trung không vong cộng lại là 85 vị.
Nhưng sách Tử Vi ở Việt Nam do tổ tiên chúng ta truyền lại thì thấy có thêm nhiều sao khác không ghi trong Tử Vi đẩu số toàn thư của Trần Đoàn như các sao: Đào Hoa – Thiên Tài – Thiên Thọ - Phá Toái – Kiếp Sát – Thiên Y – Thiên Trù – Thiên Giải - Địa Giải - Giải Thần - Địa Không – Ân Quang – Thiên Quí – Cô Thần - Quả Tú – Lưu Hà – Thiên Quan – Quí Nhân – Thiên Phúc.
Tổng cộng lại là 104 vị. 


Đá Thạch Anh

Các cụ đã căn cứ vào đâu mà thêm vào không hiểu hoặc giả sách Tử Vi đẩu số toàn thư chính bản đã sang bên ta, nên bản lưu bên chính quốc bị ghi chép thiếu sót. Nếu vậy, tại sao không có những lời giải rõ ràng về các sao: Giải Thần - Địa Giải – Thiên Trù – Thiên Giải mà chỉ có vài lời nghe thật gượng ép. Trừ sao Đào Hoa thì có thể nói Tử Vi đẩu số toàn thư bị thiếu, vì sao này rất quan trọng trong phép tính số Tử Bình và cách an sao không khác phép tính số Tử Vi.
Tính (sao) còn gọi là Diệu. Ví dụ 14 sao thuộc chòm Tử Vi Thiên Phủ là chính diệu (sao chính) nếu cung mệnh không có sao chính thì gọi là mệnh vô chính diệu.
Sách đẩu số mệnh lý cho rằng: Tả Phụ - Hữu Bật – Văn Xương – Văn Khúc - Lộc Tồn cũng là chính tinh nữa. Còn cổ truyền khoa Tử Vi của ta thì căn cứ vào Tử Vi đẩu số toàn thư nên chỉ có 14 vị là chính tinh mà thôi.
Các sao: Kình Dương – Đà La - Hỏa Tinh – Linh Tinh – Thiên Khôi – Thiên Việt gọi là Thiên diệu.
Hoá Lộc – Hoá Quyền – Hoá Khoa – Hoá Kỵ gọi là hoá diệu hay tứ hoá.
Ngoài ra các sao khác là tạp diệu.
Lại có những tên gọi riêng như Tứ Cát (bốn sao tốt) là Lộc, Quí (gồm Khôi Việt), Quyền, Khoa.
Tứ hung hay tứ sát (bốn sao hung) là Hỏa, Linh, Dương, Đà.
Những sao đi đôi, đi cặp là: Tử Phủ (hay Tử Vi – Thiên Phủ), Tử - Tướng, Phủ - Tướng, Nhật - Nguyệt, Tả - Hữu, Xương – Khúc, Không - Kiếp, Hỏa – Linh, Dương – Đà, Khôi - Việt.
- Tam hợp là gì?
Mỗi lá số tử vi có 12 cung theo 12 chi, mỗi cung khi tính sao được tính theo tam hợp tức là hội các sao của 3 cung lại. Ba cung nào? Phải theo nguyên tắc sau: Thân Tý Thìn, Tị Dậu Sửu, Hợi Mão Mùi, Dần Ngọ Tuất.
- Lục xung là gì?
Tý - Ngọ xung, Sửu – Mùi xung, Dần – Thân xung, Mão - Dậu xung, Thìn - Tuất xung, Tị - Hợi xung.
- Thủ đồng là gì?
Một chính tinh đóng ở mệnh cung là thủ mệnh. Hai chính tinh đóng ở mệnh là đồng cung hoặc đóng ở các cung khác cũng vậy.
- Lâm - Nhập là gì?
Hai chữ trên mang cùng một nghĩa, nhưng sao tốt đóng ở đâu gọi là Lâm, sao xấu đóng ở đâu gọi là nhập.
- Miếu – Hãm là gì?
Mỗi sao cần phải đứng tại vị trí đúng chỗ của nó, đứng sai chỗ gọi là Hãm, đứng đúng chỗ gọi là Miếu. Còn có những danh từ khác chỉ sự đúng chỗ như vượng địa, đắc địa, tuy nhiên miếu địa vẫn là nhất. Đúng chỗ mới lợi, sai chỗ vô ích hoặc bất lợi, Ví dụ: vua Văn Vương bị bắt giam trong tù, Tỉ Can đi thờ vua Trụ.
- Tọa - Cứ là gì?
Tọa chỉ sao tốt ngồi tại cung nào.
Cứ tức chiếm cứ chỉ sao xấu xâm nhập tại cung nào.
- Bản phương - Hợp phương – Lân phương là gì?
Bản phương là cung chủ yếu ta căn cứ vào đó để tính. Ví dụ: Mệnh ở cung Mão thì Hợp phương theo tam hợp thì có Hợi và Mùi.
Còn lân phương là cung bên cạnh. Ví dụ: Thìn và Dần là lân phương của Mão.
- Triều và xung là gì?
Sao tốt đóng tại cung khác theo tam hợp và chiếu hướng về cung chủ yếu gọi là Triều. Sao xấu cùng một trường hợp trên gọi là Xung. Riêng sao Thái Âm, Thái Dương không dùng chữ Triều mà dùng chữ Chiếu. Riêng sao Lộc Tồn và Hoá Lộc không dùng chữ Triều mà dùng chữ Củng.
- Giáp - Chiếu - Hiệp là gì?
Các sao tốt đóng hai cung bên cạnh cung mệnh (lân phương) gọi là Giáp.
Ví dụ: giáp Nhật - Nguyệt, giáp Tả - Hữu
Chiếu là sao ở cung đối xung ảnh hưởng tới, ví dụ: Ngọ chiếu Tị, Dậu chiếu Mão hoặc ngược lại.
Về câu: “Chính không bằng Chiếu, Chiếu không bằng Giáp” không thể áp dụng cho bất cứ sao nào.
Ví dụ: Thái Âm, Thái Dương cần Chiếu, Tả Phụ, Hữu Bật cần Giáp. 


Đá Thạch Anh


TRẦN ĐOÀN VÀ SÁCH TỬ VI ĐẨU SỐ TOÀN THƯ


Đá Thạch Anh

     Cụ Nguyễn Công Trứ có làm một bài ca trù vịnh Trần Đoàn như sau:
     Sườn non bầu rượu túi thơ
     Thảnh thơi ngồi gẫm cuộc cờ Trường An
     Vạc Hậu Chu vừa khi mới đổi
     Trần Hi Di lên ẩn núi Hoa Sơn
     Mấy mươi năm trong cuộc bùn than
     Lửa văn võ chưa rặc lò đan táo
     Hà vật lão ẩu
     Nặng trên vai hai chúa thái bình
     Liếc trông chừng Tống nhật đã khai minh
     Mây thúc quí hẳn từ rầy trong leo lẻo
     Trần Kiều mộng lý giang sơn tiểu
     Vãn quán xuân thâm nhật nguyệt trường
     Rượu một bầu, thơ một túi, cờ một cuộc, cầm một xoang
     Khi đắc ý gật trên lừa cười ra rả
     Ngoài cung kiếm mặc ai xa mã
     Luy trần bất đáo thử giang san
     Trời riêng cho một cuộc nhàn.
Trong chính sử không thấy nói đến Trần Đoàn, tên ông chỉ được ghi trong dã sử, truyền ký và chính thức trong các sách về tướng pháp và lý số, thành thử đời sau không thể có một tiểu sử liên tục và rõ ràng về ông.
Căn cứ vào bài Ca trù của Nguyễn Công Trứ để lấy thứ tự đồng thời cộng với một số truyền kỳ, ta có thể hình dung một cách đại khái thân thế Trần Đoàn như sau:
Từ nhà Đường chuyển sang nhà Tống trải qua giai đoạn lịch sử quá độ trung ương tập quyền biến ra địa phương hùng cứ rồi chuyển thành đời Ngũ Đại đã rồi nhà Tống mới thống nhất.
Trần Đoàn lớn lên giữa lúc nhiễu nhương binh lửa, giết chóc loạn lạc, ông lên núi tu ẩn để tránh họa. Khi đã nắm được lẽ huyền vi của âm dương, ông thường đi đây đó để tìm anh hùng và chân chúa. Có một lần gặp người đàn bà gánh kĩu kịt trên vai hai đứa trẻ mỗi thúng ở đầu đòn gánh một đứa. Ông mới hỏi: “Hà vật lão ẩu? Này bà gánh kia chi vậy?” Người đàn bà mở nắp thúng cho Trần Đoàn coi rồi thở dài nói: “Tôi dẫn hai con tôi đi chạy loạn đây”.
Vừa nhác trông thấy hai đứa nhỏ, Trần Đoàn đã kêu lên: “Một vai bà mà gánh những hai vị thiên tử sao?”
Lòng ông vui mừng khôn xiết, vì thiên hạ sắp hưởng đời thái bình nên mới có hai vị chân chúa anh hùng xuất thế. Trần Đoàn liền lấy trong bọc ra mười lạng đưa biếu người đàn bà không quen biết rồi lên lưng lừa đi thẳng.
Hậu Chu là gì?
Là Chu Thế Tôn người đi bước đầu trong công cuộc thống nhất nhưng chưa được năm năm đã mất.
Phải đợi đến lúc có vụ binh biến Trần Kiều do hai anh em ông Triệu Khuông Dận và Triệu Khuông Nghĩa (hai đứa trẻ Trần Đoàn gặp trước đây nay lớn lên) cầm đầu đánh dẹp nốt các phương chấn bấy giờ đại nghiệp thống nhất mới hoàn thành.
Khi nghe tin Triệu Khuông Dận là Tống Thái Tổ thì Trần Đoàn đang ngồi trên lưng lừa ngửa mặt cười ra rả nói: “Thiên hạ thái bình rồi”.
Về sau, Tống Thái Tôn tức Triệu Khuông Nghĩa có cho người vời Trần Đoàn ra làm quan nhưng ông từ chối, bỏ vào núi đi mất không ai biết ở đâu.
     Gốc thông hỏi chú học trò
     Rằng thầy hái thuộc lò mò đi xa
     Chỉ trong dẫy núi đây mà
     Mây che mù mịt biết là nơi nao
                  (Tản Đà dịch thơ Giả Đào bài Tầm ấn giả bất ngộ).

Đá Thạch Anh


Gốc gác khoa Tử Vi có tự bao giờ?
Không ai rõ chỉ biết đời nhà Gia Tĩnh thuộc Minh triều có lưu truyền cuốn Tử Vi đẩu số toàn thư do tiến sĩ La Hồng Tiên biên soạn. Lời tựa ở đầu nói Tử Vi đẩu số toàn thư là của tác giả Hi Di Trần Đoàn.
Bài tựa viết như sau:
“Thường nghe nói cái lý của số mệnh rất huyền vi ít ai biết cho tường tận để mà thuận thụ coi công danh phú quí trên đời đều có mệnh.
Tôi vì muốn biết nên đã tới tận núi Hoa Sơn chỗ ông Hi Di Trần Đoàn đắc đạo để chiêm bái nơi thờ tự của bậc đại hiền. Lúc ra về thì thấy một vị cao niên thái độ ung dung chân thực đưa cho tôi cuốn sách mà bảo: “Đây là Tử vi đẩu số tập của Hi Di tiên sinh”.
Mang về mở ra xem, ban đầu các sao nghĩa lý thật ảo diệu nhưng càng đọc càng thấy lời bàn luận sắc đáng, đem ra đoán thử thấy lời đoán rất thần nghiệm, càng học càng thấy hay lạ. Bất giác phải kêu lên: “Tạo hoá chí huyền chí hư mà soi sáng được đến thế này, nếu con tâm bậc đại hiền không nhập vào với tạo hoá thì làm sao biết nổi. Tinh tú ở xa muôn triệu dậm mà tính hết vào trong một bàn tay, nếu bậc đại hiền không phải là người hung tàng tinh đẩu (trong ngực có tinh đẩu) thì làm sao tính nổi. Ngôi trời ở trên, ngôi đất ở dưới, loài người đứng giữa. Hi Di tiên sinh đã tìm được lẽ con người thiên hợp và lẽ trời nhân hợp qua sự biến hoá của các vi tinh đẩu để tính ra số mệnh hay dở của từng người, nếu không có cái học quán thiên nhân thì ai làm nổi. Hi Di tiên sinh xứng đáng là một bậc cao nhân, một thần nhân vậy.
Bởi thế tôi muốn đem những lời dạy của Hi Di Tiên Sinh phổ biến cho khắp thiên hạ trong cõi thế gian thấp kém này được hiểu cuộc đời là có mệnh số”.
Cuốn Tử Vi đẩu số toàn thư của Hi Di Trần Đoàn do La Hồng Tiên biên soạn chia làm 4 tập:
Tập một và tập ba nói về tính chất ảnh hưởng các sao, các cung vào vận, vào mệnh con người qua các chương: Thái vi phú – Hình tinh phú – Tinh viên luận - Đẩu số chuẩn thắng - Tục hình tinh phú – Phát vi luận - Đẩu số cốt tủy chú giải - Nữ mệnh cốt tủy phú chú giải - Định phú quí bần tiện thập thập đẳng luận – Thập nhị cung chư tinh thất hãm quyết – Chư tinh đắc địa phú quí luận – Chư tinh thất hãm bần tiện luận - Định phú cục - Định quí cục - Định bần tiện cục - Định tạp cục – Đàm tinh yếu luận – Luận nhân mệnh nhập cách - Luận cách tinh số cao hạ - Luận nhân tính cách hà như - Luận nam nữ mệnh đồng dị - Luận tiểu nhi mệnh - Định tiểu nhi thời sinh quyết - Luận nhân sinh thời an mệnh cát hung - Luận tiểu nhi khắc phụ mẫu - Luận mệnh tiền bần hậu phú - Luận đại hạn thập niên họa phúc hà như - Luận nhi hạn thái tuế cát hung - Luận hành hạn phân nam bắc đẩu – Luận lưu niên thái tuế cát hung tinh sát - Luận kinh đà diệt tính - Luận thất sát trùng phùng - Luận đại tiểu hạn tinh thần quá thập nhị cung ngộ thập nhị chi sở kỵ quyết - Luận lập mệnh hành hạn cung ca - Luận thái tuế tinh thần miếu hãm ngộ thập nhi cung cát hung - Luận chư tinh đồng vị viên các tư sở nghi phân biệt phú quí bần tiện yểu thọ.
Tập hai dạy cách lấy số an các sao.
Tập bốn là những lá số của các danh nhân, thường nhân với lời phê.

Về tập hai tức cách an sao lập thành lá số thiết tưởng đã có nhiều sách làm kỹ càng rồi nên ở đây xin bỏ qua tập đó, chỉ nói một vài dị biệt giữa Tử Vi đẩu số toàn thư của Trần Đoàn với những sách Tử Vi ở nước ta. Tập một và tập ba cần chú ý hơn hết, chúng tôi sẽ dịch nguyên văn kèm theo lời bình và chú thích. Dùng chữ bình, chúng tôi tự thấy có vẻ hơi lạm thực ra chỉ là những thắc mắc mà chúng tôi tìm thấy đó thôi. Nhưng chúng tôi sẽ không dịch nguyên văn toàn bộ vì có nhiều điều lập đi lập lại hoặc do mất chữ trở thành vô nghĩa. Đồng thời, chúng tôi cũng đưa thêm vào ít khám phá mới của vài tác giả như Trương Huy Văn với các cuốn “Tử Vi Xiển Vi”, “Tử Vi phát bí”, như “Vô Muộn” với cuốn “Đẩu số mệnh lý tân biên”. Tuy nhiên, chúng tôi cố gắng không để rơi lọt một tinh hoa nào của khoa Tử Vi có ghi trong sách Tử Vi đẩu số toàn thư của Hi Di Trần Đoàn tiên sinh.

Đá Thạch Anh